Thanh khoản hệ thống ngân hàng và lãi suất liên ngân hàng ở trạng thái thuận lợi ngay giữa mùa cao điểm sản xuất kinh doanh của năm.
Chỉ vài năm trước, diễn biến của lãi suất trên thị trường liên ngân hàng dường như không quá nổi bật trong các dòng chảy thông tin. Nay đã khác. Sức ảnh hưởng của lãi suất này rõ nét hơn và nhà đầu tư càng cần chú ý hơn.
Nguyên do, nhiều năm trước, quy mô giao dịch trên thị trường liên ngân hàng còn rất nhỏ, chỉ khoảng 50.000 tỷ đồng mỗi ngày, quá nhỏ so với 8-9 triệu tỷ đồng tổng nguồn vốn huy động của toàn hệ thống.
Dù vậy, với chức năng chính, thị trường liên ngân hàng vẫn đóng vai trò quan trọng, như bình nước làm mát đối với động cơ của lãi suất trên các thị trường. Nó hỗ trợ điều hòa thanh khoản hệ thống ngắn hạn, hạn chế cầu vốn ngắn hạn trong hệ thống dâng lên ở thị trường 1 (với dân cư và tổ chức) mà qua đó kích lãi suất huy động (và lãi suất cho vay) tăng lên.
Đến nay, chỉ sau vài năm, quy mô trên thị trường liên ngân hàng đã tăng đột biến, đặc biệt từ cuối năm 2021 đến nay. Dữ liệu so sánh cho thấy, ngay cả trước khi đại dịch COVID-19 xẩy ra, nền kinh tế vận động bình thường, quy mô giao dịch trên liên ngân hàng cũng chỉ quanh 45.000 tỷ đồng/ngày. Nhưng từ năm 2021 đã vọt lên quanh 100.000 tỷ đồng, rồi đến 2022 quen thuộc với quy mô quanh 200.000 tỷ đồng/ngày.
Mức độ trên đã không còn quá nhỏ so với quy mô vốn huy động toàn hệ thống nữa. So với quy mô vốn huy động toàn hệ thống, bởi nguồn vay mượn ngắn hạn ở đây nếu được bình ổn càng giúp giảm thiểu chi phí vốn đầu vào cho các ngân hàng thương mại (NHTM).
Và như đề cập vừa qua, lãi suất VND liên ngân hàng liên tiếp giảm mạnh, qua đêm đã về sát 1%/năm, giúp pha loãng chi phí vốn nói trên của hệ thống. Quy mô của “bình nước làm mát” này cũng đã rất lớn, gấp đôi đến gấp ba so với chỉ vài năm trước, càng hỗ trợ và góp phần hạ nhiệt cỗ máy lãi suất có xu hướng nóng lên trên các thị trường từ đầu năm đến nay.
Đến ngày 25/5, lãi suất qua đêm tiếp tục giảm xuống còn 1,04%/năm |
Vấn đề là vì sao chỉ sau vài năm mà doanh số giao dịch hàng ngày trên liên ngân hàng đột biến đến như vậy?
Thứ nhất, nó phản ánh cung – cầu vốn hoàn toàn tự dưỡng được giữa các NHTM với một vùng lãi suất rất thấp. Ở khía cạnh này gián tiếp phản ánh mức độ tín nhiệm, giá trị bền vững trong nội bộ hệ thống đã cải thiện rất nhiều.
Trong quá khứ, thị trường liên ngân hàng Việt Nam từng có những giai đoạn mất niềm tin, phát sinh nợ xấu ngay giữa các nhà băng dẫn tới sự ngột ngạt thanh khoản; giao dịch ở đây từng nặng nề với điều kiện phải có tài sản đảm bảo mới nối được cung – cầu.
Hoặc trước nữa, cũng từng có tình trạng “chim mồi” lãi suất theo hướng ngân hàng sống trên lưng ngân hàng khác, qua “đội nhóm” hoặc “liên minh” làm giá trên thị trường này khiến thanh khoản và lãi suất căng thẳng…
Nhìn lại những vấn đề từng xẩy ra trong quá khứ nói trên để thấy quy mô và sức lưu thông, trôi chảy với chi phí lãi suất rất thấp hiện nay như thế nào. Và qua đó thị trường liên ngân hàng càng góp vài trò, giá trị trong điều hòa thanh khoản hệ thống, giảm thiểu phát sinh áp lực lãi suất trên các thị trường khác.
Thứ hai, một lý giải cụ thể hơn cho quy mô đột biến hiện nay gắn với thay đổi lớn trong cấu trúc vốn của hệ thống NHTM Việt Nam, gắn với một phần thay đổi trong nền kinh tế.
Nguồn tiền ở hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay đã bớt sức nặng của mối quan hệ huy động – cho vay, gửi tiền lấy lãi suất như các giai đoạn trước. Thay vào đó, một xu hướng ngày càng mạnh là lượng tiền gửi thanh toán (CASA) ngày càng lớn và chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu. Hiện đã có phân nửa hệ thống đạt CASA từ 15%, nhiều thành viên trên 20% và một nhóm dù chưa nhiều thành viên nhưng có thị phần huy động đáng kể đã đạt tới 35-50%.
Với thay đổi này, nền kinh tế Việt Nam cũng có khía cạnh đã thay đổi. Một nền kinh tế huy động – cho vay, gửi tiền để nhận lãi là chủ yếu dịch chuyển sang thương mại nhiều hơn trước – một nền kinh tế giao dịch ngày một mở rộng.
Câu hỏi tiếp theo đáng quan tâm hơn: Vậy, khi tiền gửi thanh toán ngày càng nhiều lên, tỷ trọng cao lên thì độ lỏng lẻo trong cơ cấu vốn huy động của các NHTM có tăng thêm áp lực lên thanh khoản? Cơ cấu hiện nay có dễ bị nhạy cảm khi lãi suất tăng lên không?
Những câu hỏi trên từng được nhà đầu tư đặt ra trực tiếp với lãnh đạo Techcombank tại cuộc đối thoại quý 1/2022. Đây cũng là nhà băng đang có tỷ lệ CASA lớn nhất hệ thống, với 50,4-50,5%.
Đại diện lãnh đạo Techcombank khi đó trả lời rằng: Mục tiêu chính của CASA là để giao dịch chứ không phải để hưởng lãi suất. Đặc điểm này gắn với thực tế nền kinh tế đang vận động ngày càng mạnh hơn ở xu hướng nền kinh tế giao dịch thay vì gửi tiền lấy lãi.
Tuy nhiên, khi cơ cấu CASA ngày càng lớn, nhu cầu cân đối thanh khoản ngắn hạn của hệ thống cũng lớn hơn. Điều này phản ánh ở doanh số trên liên ngân hàng tăng vọt và duy trì ở mức cao nói trên. Và điểm quan tâm là lãi suất ở đây vẫn rất thấp, chỉ quanh 1%/năm.
Vậy CASA lớn thì mức độ lỏng lẻo có thể lớn, NHTM quản trị thế nào?
Đương nhiên Ngân hàng Nhà nước có các giới hạn, hệ số quản lý rủi ro thanh khoản hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng mà các nhà băng phải tuân thủ. Nhà điều hành cũng luôn phòng hờ tạo nguồn ở thị trường mở (OMO) để tạo cung nếu cần.
Còn theo đại diện lãnh đạo Techcombank tại cuộc đối thoại trên, ngoài đặc điểm gắn bó của CASA với mục tiêu của người gửi là để giao dịch, thì ngân hàng luôn phải chủ động các giải pháp cân đối nguồn.
“Khi tình hình thanh khoản có vấn đề thì chúng tôi đã chuẩn bị sẵn và huy động từ trước thay vì phản ứng lại các diễn biến thị trường”, lãnh đạo Techcombank nói. Và ngoài ra, đa dạng kênh huy động cũng là giải pháp.
Bên cạnh thường xuyên phát hành trái phiếu để cân vốn dài hạn và củng cố cơ cấu, vài năm gần đây hệ thống NHTM Việt Nam cho thấy một năng lực dần chủ động hơn: nhiều thành viên đã đi ra thị trường quốc tế để huy động vốn, với quy mô đáng kể như tại chính Techcombank năm trước, hay vừa qua tại VPBank…
Còn với riêng năm nay và hiện nay, như trên, “bình nước làm mát” của động cơ lãi suất đang dồi dào và điều hòa tốt. Tới đây tình hình sẽ thế nào?
Một mặt Ngân hàng Nhà nước vẫn luôn sẵn sàng can thiệp bình ổn qua OMO. Quan trọng hơn, như “thường lệ” hàng năm, từ cuối quý 2 và trọng tâm quý 3 giải ngân đầu tư công đẩy mạnh hơn; nguồn vốn ứ đọng của ngân sách theo đó lan tỏa mạnh hơn để các mao mạch trong nền kinh tế, qua đó giúp tạo nguồn và góp phần “làm mát” cỗ máy lãi suất bên cạnh vai trò và quy mô của thị trường liên ngân hàng đang ngày một lớn.
Nguồn: cafef.vn