Và có những công ty đóng vai trò như được thành lập để phục vụ cho mục đích huy động vốn hoặc cơ cấu lại nợ của công ty mẹ…
Như thông tin cụ thể trước đó , Ủy ban Kinh tế của Quốc hội vừa phát hành báo cáo riêng về trái phiếu doanh nghiệp (TPDN). Bên cạnh các dữ liệu chi tiết về tình hình thị trường TPDN hiện nay, báo cáo cũng nêu những hiện tượng và hạn chế đang có trên thị trường này.
Ở đánh giá chung, Ủy ban Kinh tế cho biết, so với TPDN phát hành ra công chúng, chất lượng TPDN phát hành riêng lẻ còn chưa cao; tình hình tài chính của một số doanh nghiệp phát hành còn hạn chế, gây rủi ro đối với khả năng thanh toán gốc, lãi trái phiếu.
Cụ thể, một số doanh nghiệp phát hành trái phiếu với khối lượng lớn gấp từ 05 lần trở lên so với vốn chủ sở hữu (mức cao so với phần lớn các doanh nghiệp niêm yết), trong đó có doanh nghiệp quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ, dưới 100 tỷ đồng.
Một số tổ chức phát hành là công ty chưa niêm yết, không phải công ty đại chúng, có thời gian hoạt động ngắn, khó tìm kiếm thông tin về hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính, thậm chí không có trang web.
Một số doanh nghiệp phát hành có kết quả kinh doanh lỗ hoặc tỷ suất lợi nhuận/vốn chủ sở hữu (ROE) thấp dưới 1%.
Một số doanh nghiệp bất động sản huy động khối lượng lớn TPDN riêng lẻ với lãi suất cao (12-13%/năm, gấp đôi so với lãi suất tiền gửi ngân hàng).
Đáng chú ý, một bộ phận TPDN phát hành riêng lẻ của tổ chức phát hành là trái phiếu không có tài sản bảo đảm hoặc bảo đảm bằng cổ phiếu chưa niêm yết, các dự án, tài sản hình thành trong tương lai, khó xác định giá trị hợp lý hoặc giá trị tài sản bảo đảm bằng cổ phiếu, dự án bất động sản có thể được nâng giá bất thường thông qua giao dịch cổ phiếu, đấu giá đất.
Cũng theo Ủy ban Kinh tế, thị trường còn hiện tượng sử dụng vốn huy động qua phát hành TPDN riêng lẻ sai mục đích, thiếu minh bạch. Một số doanh nghiệp thông qua các công ty có liên quan (hầu hết là doanh nghiệp chưa niêm yết, công ty không phải là công ty đại chúng) đóng vai trò như các công ty được thành lập để phục vụ cho mục đích huy động vốn hoặc cơ cấu lại nợ của công ty mẹ huy động vốn với giá trị lớn qua kênh TPDN riêng lẻ.
Một số doanh nghiệp phát hành (cho bên mua là tổ chức tín dụng – TCTD) để góp vốn, mua cổ phần, mua trái phiếu của doanh nghiệp khác hoặc cho doanh nghiệp khác vay vốn nhằm lách quy định về giới hạn cho vay/đầu tư TPDN của TCTD đối với 1 khách hàng/nhóm khách hàng.
Theo Ủy ban, việc chuyển vốn huy động từ phát hành TPDN “lòng vòng” qua các doanh nghiệp khác tiềm ẩn rủi ro sử dụng vốn sai mục đích, có thể dẫn đến mất vốn gốc, lãi trái phiếu của nhà đầu tư, đặc biệt trong trường hợp dự án đầu tư gặp khó khăn, các doanh nghiệp tham gia vào quá trình chuyển vốn có thể mất khả năng thanh toán đồng thời tạo nên hiệu ứng dây chuyền trên thị trường TPDN. Tuy nhiên, việc phát hiện mối liên quan giữa các doanh nghiệp còn hạn chế do thông tin để xác định tính liên quan về sở hữu của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp không phải là công ty đại chúng rất khó tiếp cận.
Bên cạnh những điểm lưu ý trên, báo cáo của Ủy ban Kinh tế cũng lưu ý đến một hiện tượng “chạy nước rút” trong đầu tư TPDN đầu năm nay.
Cụ thể, đối với các TCTD, đến cuối tháng 3/2022, tổng số dư đầu tư TPDN là 326,5 nghìn tỷ đồng, tăng 19,0% so với cuối năm 2021, trong đó có một số ngân hàng thương mại tăng đầu tư trái phiếu trong khoảng thời gian từ tháng 12/2021 đến ngày 14/01/2022 trước thời điểm Thông tư 16/2021/TT-NHNN quy định việc TCTD mua, bán TPDN (có hiệu lực từ ngày 15/01/2022) nhằm tránh những quy định chặt chẽ hơn tại Thông tư.
Nguồn: cafef.vn