Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho rằng có sự e ngại từ phía ngân hàng thương mại khi giải ngân gói hỗ trợ lãi suất 2% do gói hỗ trợ lãi suất trước đây cũng có khó khăn về giải ngân và kiểm toán. Trong khi đó, doanh nghiệp e ngại chuyện thanh tra, kiểm toán sau này.
Lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho rằng có sự e ngại từ phía ngân hàng thương mại khi giải ngân gói hỗ trợ lãi suất 2% do gói hỗ trợ lãi suất trước đây cũng có khó khăn về giải ngân và kiểm toán. Trong khi đó, doanh nghiệp e ngại chuyện thanh tra, kiểm toán sau này.
Tại chuyên đề thúc đẩy việc thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động trong khuôn khổ “Diễn đàn Kinh tế – Xã hội Việt Nam 2022” sáng 18/9, PGS.TS. Nguyễn Trúc Lê, Hiệu trưởng Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội đánh giá các cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh phục hồi sản xuất, kinh doanh sau đại dịch đã góp phần không nhỏ trong việc đảm bảo xu hướng phục hồi tích cực của các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước, bảo đảm nguồn cung tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Ông Lê cho biết từ đầu năm đến nay, có 11 chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, quy mô 55,5 tỷ đồng nhưng tỷ lệ giải ngân mới đạt 16%.
Trong đó, chính sách giảm thuế giá trị gia tăng, thuế môi trường với nhiên liệu bay, xăng chiếm cơ cấu giải ngân lớn nhất, lên tới 63% và đã giải ngân được 54,6% (tính đến ngày 26/8). Trong khi đó, gói hỗ trợ 2% lãi suất chiếm cơ cấu 1% là thấp nhất và mới giải ngân tỷ lệ 0,03%.
Chính sách tốt nhưng điều kiện quá bất cập
Phân tích về các tồn tại, khó khăn trong việc triển khai các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, ông Lê cho rằng hạn chế đầu tiên là chính sách tốt nhưng điều kiện quá bất cập, doanh nghiệp khó thụ hưởng, chưa kịp thời điều chỉnh các bất cập.
Ông lấy ví dụ, việc tiếp cận nguồn vốn rẻ với chính sách hỗ trợ lãi suất 2% khá khó khăn do doanh nghiệp khó đáp ứng được các điều kiện cho vay. Có doanh nghiệp không được giải ngân vì không có tài sản thế chấp, trong khi ngân hàng kiên quyết không hạ chuẩn cho vay. Có hộ kinh doanh dịch vụ thu nhập thấp, song không thể tiếp cận chính sách hỗ trợ lãi suất 2%,vì lý do tỉnh đó chưa quy định mức thu nhập bao nhiêu là thấp…
Ngoài các vướng mắc nêu trên, một nguyên nhân khác khiến khách hàng vay vốn e ngại tiếp cận gói hỗ trợ lãi suất 2% là tham gia chương trình hỗ trợ lãi suất sẽ phải làm việc với các đoàn thanh tra, kiểm toán, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền.
Khó khăn thứ hai là các thủ tục hành chính còn rất rườm rà, phức tạp, làm giảm hiệu quả của chính sách, đặc biệt là có quá nhiều giấy phép con liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp.
“Để nhận một khoản tiền nhỏ hỗ trợ COVID-19, người lao động phải hoàn thiện quá nhiều hồ sơ giấy tờ phức tạp, dẫn tới họ không có động lực thực hiện việc này. Ngoài ra, các hộ kinh doanh tuy là đối tượng thực sự khó khăn và mong muốn được giảm lãi vay, lại khó tiếp cận chính sách vay hỗ trợ lãi suất 2% do điều kiện phải có giấy phép đăng ký kinh doanh”, ông Lê dẫn chứng.
Thứ ba, ông Lê cho rằng, các chính sách đa số được thiết kế và thực thi theo hướng bình quân hóa giữa các địa phương, ngành nghề, quy mô, mà ít tính đến mức độ ảnh hưởng và khả năng chống chịu giữa các ngành nghề cũng như các doanh nghiệp.
“Liều lượng chính sách còn khiêm tốn, cùng với đó là số lượng đối tượng được hỗ trợ quá nhiều, nên lợi ích từ chính sách bị dàn trải”, ông Lê đánh giá và phân tích thêm quy mô gói hỗ trợ kinh tế của Việt Nam dù bằng 4,05% GDP tuy nhiên, vẫn thấp hơn mức trung bình toàn thế giới khoảng 16% GDP, các nước mới nổi khoảng 7,5% GDP và các nước thu nhập thấp khoảng 4,28% GDP. Trong đó, riêng chi cho đầu tư phát triển đã chiếm hơn 1/3 tổng giá trị các gói hỗ trợ (chiếm đến 36,87%).
Bên cạnh đó, các chính sách còn có sự mâu thuẫn, hạn chế lẫn nhau (công bố gói hỗ trợ lãi suất nhưng giới hạn mức tín dụng), đối tượng thụ hưởng chưa tập trung vào đúng đối tượng cần hỗ trợ (khi các tiêu chí xét duyệt hưởng các gói hỗ trợ chủ yếu lại tập trung vào các doanh nghiệp lớn, “khỏe mạnh”, tài chính tốt), thời gian giãn, hoãn thuế, phí, tiền thuê đất cho doanh nghiệp rất ngắn nên phần doanh nghiệp được hỗ trợ rất nhỏ (dù được kéo dài thêm 1 tháng, từ 5 tháng lên 6 tháng).
Tuy nhiên, theo Hiệu trưởng Đại học Kinh tế các tồn tại cũng xuất phát từ các doanh nghiệp như hạn chế của doanh nghiệp trong nhận thức và lựa chọn gói ưu đãi phù hợp; tiếp cận thông tin thụ động, chưa tối ưu hóa các nguồn hỗ trợ,…
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn chưa tận dụng triệt để các nguồn lực bên ngoài nhằm tư vấn hỗ trợ để đạt được các gói ưu đãi.
Cả ngân hàng và doanh nghiệp đều “e ngại”
Tại phiên thảo luận, thông tin về tiến độ giải ngân gói hỗ trợ lãi suất 2% và việc có hay không tâm lý “e ngại” của cả ngân hàng và doanh nghiệp, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Phạm Thanh Hà cho biết, sau 3 tháng triển khai Nghị định 31 về hỗ trợ 2% lãi suất từ ngân sách Nhà nước (với 40.000 tỷ đồng trong năm 2022 và 2023), doanh số cho vay hỗ trợ lãi suất mới đạt gần 4.100 tỷ đồng với gần 550 khách hàng. Số tiền lãi đã hỗ trợ đạt chỉ 1 tỷ đồng, dư nợ được hỗ trợ lãi suất là 3.966 tỷ đồng.
“Số liệu cũng còn khiêm tốn”, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước xác nhận và giải thích thêm, dù Nghị định 31 ban hành tháng 5 nhưng dư nợ tính từ tháng 1/2022 nên theo đánh giá nhanh của Ngân hàng Nhà nước, tổng dư nợ của chương trình có thể đạt 800.000 tỷ đồng.
Theo Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước, việc cho vay của hệ thống các ngân hàng thương mại vẫn diễn ra bình thường, không phụ thuộc vào vấn đề còn hay hết “room” tín dụng. Tuy nhiên, việc triển khai chưa được như kỳ vọng do một số nhóm khó khăn.
Thứ nhất, về đối tượng hỗ trợ, có trường hợp khách hàng hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực; nếu một trong số các ngành hoạt động thuộc diện được hỗ trợ thì có được hưởng gói này không, đó là vấn đề đặt ra. Hay nhiều hộ gia đình là khách hàng quen thuộc của ngân hàng nhưng lại không đăng ký kinh doanh thì cũng chưa đủ điều kiện hỗ trợ.
Thứ hai là tiêu chí đánh giá khách hàng có khả năng phục hồi. “Chúng tôi thấy có thể có sự khác biệt trong đánh giá, thẩm định giữa ngân hàng cho vay với đánh giá sau này của cơ quan thanh tra kiểm toán và đánh giá tính khả thi của dự án cũng khó khăn vì diễn biến thị trường sẽ tác động vào dự án”, ông Hà cho biết.
“Khi đánh giá, khách hàng phải có phương án kinh doanh cụ thể cũng như khả năng phục hồi mới có thể nhận hỗ trợ”, ông khẳng định và giải thích thêm vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, ban đầu khách hàng được thẩm định có thể trả nợ nhưng sau đó có rủi ro xảy ra, thì ngân hàng lại phải đánh giá lại về khả năng phục hồi.
Ông Hà cho biết, Ngân hàng Nhà nước nhận diện được những khó khăn trong việc triển khai và đã đề nghị các bộ, ngành liên quan cùng thống nhất rằng khách hàng tự xác định ngành nghề kinh doanh của mình xem có thuộc đối tượng được hỗ trợ lãi suất.
“Ngân hàng cho vay sẽ đánh giá chính doanh nghiệp có khả năng phục hồi không”, ông nói.
Về tâm lý, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước thừa nhận, đúng là có sự e ngại từ phía ngân hàng thương mại do gói hỗ trợ lãi suất trước đây cũng có khó khăn nhất định về giải ngân và kiểm toán. Trong khi đó, khách hàng cũng e ngại chuyện thanh tra, kiểm toán sau này.
Bên cạnh đó, dù dư nợ hỗ trợ 800.000 tỷ đồng nhưng thực tế đã triển khai 4.400 tỷ đồng nên có khoảng cách nhất định giữa khả năng được hỗ trợ cũng như thực tế vì phụ thuộc vào mong muốn của khách hàng có muốn được hỗ trợ hay không.
“Có khách hàng nói thủ tục rườm rà, điều kiện phức tạp nhưng đây là chính sách, rất mong khách hàng tuân thủ các điều kiện để bảo đảm hồ sơ giải ngân, minh bạch, chặt chẽ”, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước nói.
Để tháo gỡ những khó khăn trên, ông Hà cho biết, tới đây, Ngân hàng Nhà nước sẽ triển khai tổ công tác liên ngành khảo sát thực tế địa phương để giải đáp thắc mắc; tiếp tục tổ chức hội nghị kết nối doanh nghiệp – ngân hàng. Đồng thời, phối hợp với các bộ ngành để chỉnh sửa chính sách, thủ tục cần tháo gỡ khó khăn để khách hàng vay được vốn và gói hỗ trợ này được triển khai nhanh hơn.
Nguồn: cafef.vn