“Thời gian tới, kinh tế Việt Nam phải đối diện với các rủi ro cả trong nước cũng như quốc tế, nổi bật là áp lực nhập khẩu lạm phát và FED tiếp tục tăng mạnh lãi suất…”
Sự kiệm lời của Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) , Jerome Powell tại hội nghị Jackson Hole năm nay, đã phản ánh đầy đủ hiện trạng kinh tế Mỹ đang đối mặt: Kinh tế tăng trưởng âm liên tục trong quý 1 và quý 2/2022; Lạm phát cao nhất 40 năm (8,5% trong tháng 7); thắt chặt tiền tệ tối đa là cách duy nhất đưa lạm phát về mức mục tiêu 2%…
Tuy nhiên, FED càng tăng lãi suất để chống lạm phát càng đẩy nền kinh tế lớn nhất thế giới vào suy thoái sâu hơn, kịch bản tổng thể này như một dự báo chắc chắn xảy ra. Đó là thông tin khiến thị trường rúng động.
Chưa kể, chuỗi cung ứng dài đã gãy vụn ở châu Á, chuỗi cung ứng mới theo trục Mỹ – châu Âu – Nhật Bản chưa thành hình; hàng trăm danh mục hàng hóa chiến lược từ Trung Quốc không còn xuất cảng dễ dàng, khan hiếm hàng hóa “nuôi dưỡng” lạm phát tốt hơn bất cứ điều kiện nào.
Theo nhóm nghiên cứu tại Viện chiến lược và chính sách tài chính (Bộ Tài chính), xu hướng điều chỉnh chính sách tiền tệ tín dụng trên thế giới có những ảnh hưởng nhất định đến kinh tế tài chính của Việt Nam, đặc biệt đến thị trường tài chính tiền tệ.
Việc FED và các NHTW lớn trên thế giới tăng lãi suất khiến mặt bằng lãi suất chung tại các nước này tăng lên, kéo theo đó là mức tăng của lãi suất tiền gửi, bao gồm cả lãi suất trái phiếu Chính phủ. Trong bối cảnh các biến động kinh tế thế giới đang diễn ra mạnh mẽ và khó lường, xu hướng của dòng vốn quốc tế thường chảy về các khu vực có độ an toàn cao hơn. Trên lý thuyết, Việt Nam cũng sẽ chịu áp lực về dòng vốn nước ngoài rút khỏi thị trường chứng khoán khi lãi suất các đồng ngoại tệ tăng mạnh.
Tuy nhiên, do việc điều chỉnh lãi suất của các nước đã được dự báo từ trước, các nhà đầu tư đã có sự chuẩn bị, nên hiện tượng rút vốn đã không xảy ra trên quy mô lớn. Bên cạnh đó, lãi suất tăng sẽ làm ảnh hưởng đến tỷ giá của các đồng tiền so với VND, trong đó có xu hướng tăng lên khi xuất hiện nhu cầu cao hơn về đầu tư. Điều này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp nhập khẩu và các doanh nghiệp có tỷ trọng nội địa hóa trong sản xuất thấp.
“Việc các ngoại tệ, đặc biệt là đồng USD tăng giá so với VND làm tăng mức nợ phải thanh toán cho Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam, khi các khoản vay quốc tế là vay bằng ngoại tệ và thường là đồng USD.
Trong thời gian tới, kinh tế Việt Nam phải đối diện với các rủi ro cả từ trong nước và quốc tế, trong đó nổi bật là áp lực từ tình trạng nhập khẩu lạm phát, việc FED tăng lãi suất, chuỗi sản xuất và cung ứng tại Trung Quốc tiếp tục bị đứt gãy do ảnh hưởng từ chiến lược Zero – Covid của nước này… “, nhóm nghiên cứu nêu.
Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội đã đặt ra, đặc biệt trong bối cảnh các nước phát triển đang bình thường hóa chính sách tiền tệ sẽ có những tác động rõ rệt hơn đến Việt Nam trong năm 2022-2023, nhóm chuyên gia khuyến nghị một số giải pháp chính sách cần được quan tâm như:
Thứ nhất, duy trì được ổn định kinh tế vĩ mô, phục hồi nền kinh tế song hành với kiểm soát tốt đại dịch COVID-19. Theo đó, nhanh chóng triển khai các chính sách hỗ trợ trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội. Cùng với đó là tăng cường đẩy nhanh giải ngân đầu tư công.
Thứ hai, tiếp tục tăng cường phối hợp chính sách tiền tệ (CSTT), chính sách tài khóa và điều hành giá cả hợp lý. Điều hành CSTT chủ động, linh hoạt với các kịch bản khi có sự thay đổi của các NHTW lớn trên thế giới; phối kết hợp tốt với chính sách tài khóa, đảm bảo ổn định mặt bằng lãi suất và tỷ giá, góp phần kiềm chế lạm phát theo mục tiêu. Đặc biệt theo sát, phân tích và dự báo diễn biến thị trường tài chính – tiền tệ quốc tế, cần xây dựng kịch bản nếu các NHTW, đặc biệt là FED tăng biến động trên thị trường tài chính toàn cầu.
Thứ ba, kiểm soát chặt chẽ lạm phát, quản lý mặt bằng giá cả trong nước, thực thi kế hoạch kiểm soát giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý, nhất là giá xăng dầu, giá điện, giá dịch vụ y tế – giáo dục… Bên cạnh đó, cần tăng cường truyền thông cùng các biện pháp bình ổn giá, giảm thiểu tâm lý lạm phát và hiện tượng “té nước theo mưa”.
Thứ tư, theo dõi biến động trên thị trường tài chính tiền tệ với các điều chỉnh tăng lãi suất của các NHTW lớn, nhằm có những cảnh báo kịp thời đối với doanh nghiệp; điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối chủ động, linh hoạt nhằm ổn định tỷ giá, góp phần kiểm soát lạm phát và hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là khối doanh nghiệp vay nợ nước ngoài nhiều.
Thứ năm, tiếp tục khơi thông nguồn vốn cho tăng trưởng xanh. Nghiên cứu, xây dựng chính sách lãi suất phù hợp khi thực hiện cấp tín dụng xanh theo hướng ưu tiên hỗ trợ về lãi suất và các điều kiện tiếp cận nguồn vốn tín dụng đối với các dự án đầu tư thân thiện với môi trường, sử dụng năng lượng sạch, sản phẩm sạch; các dự án tiết kiệm năng lượng, nước, nhiên liệu; để giảm chất thải hoặc ô nhiễm…
Một số các giải pháp đã và đang được các ngân hàng Trung ương trên thế giới áp dụng để khuyến khích tín dụng xanh và phát triển ngân hàng xanh như giảm dự trữ bắt buộc tương ứng với mức độ cho vay xanh; tăng tổng dư nợ cho các ngân hàng có dư nợ tín dụng xanh nhiều; áp dụng giảm lãi suất góp vốn đối với ngân hàng thực hiện đánh giá rủi ro môi trường tốt khi cấp tín dụng; tăng yêu cầu về tỷ lệ dự trữ bắt buộc và thanh khoản đối với ngân hàng nào cho vay các dự án có tổn thất thiệt hại lớn đối với môi trường.
Ngoài ra, tiếp tục hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội một cách toàn diện; trong đó hình thành được một bộ máy tổ chức để thực hiện việc quản lý, đánh giá rủi ro môi trường và xã hội, giám sát thực hiện hoạt động ngân hàng xanh, tín dụng xanh tại các ngân hàng.
Nguồn: cafef.vn